Sự cần thiết phải xây dựng Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn

  • Chia sẻ:

Thực hiện nhiệm vụ được giao tại điểm a khoản 1 Điều 139 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường và Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2023 của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2030.

Sự cần thiết phải xây dựng Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn

Tài nguyên là nguồn lực, nguồn vốn tự nhiên đặc biệt quan trọng để phát triển đất nước; môi trường là nơi cung cấp không gian sinh tồn cho con người, sinh vật và đồng thời là nơi tiếp nhận, đồng hóa chất thải của các hoạt động kinh tế, dân sinh, cung cấp các dịch vụ cho con người; biến đổi khí hậu không chỉ là những vấn đề toàn cầu, mà còn tác động trực tiếp tới từng quốc gia, từng địa phương trên tất cả các khía cạnh kinh tế - xã hội. So với nhiều quốc gia trên thế giới, nguồn lực tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam có ưu thế về điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới, còn các nguồn tài nguyên khác như khoáng sản, năng lượng đa dạng và phong phú về chủng loại nhưng phần lớn qui mô nhỏ, dự báo khả năng khó đáp ứng cho phát triển kinh tế một số ngành với nhu cầu ngày càng tăng; gia tăng dân số, đô thị hóa, công nghiệp hóa ngày càng mạnh mẽ, kèm theo xu hướng tiêu dùng nhanh, thiếu bền vững dẫn đến nguồn thải đưa ra môi trường đã và sẽ tiếp tục gia tăng mạnh nếu không có những cách tiếp cận, biện pháp giải quyết hữu hiệu.

Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường; đưa tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển trong tiến trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, hướng đến phát triển bền vững, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước luôn được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chỉ đạo kịp thời bằng những chủ trương, định hướng tổng thể, cụ thể và sát thực, được thể hiện trong các Văn kiện của Đảng tại các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc, Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị, Kết luận và Chỉ thị của Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành, chính quyền địa phương.

Trong những năm qua, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp đã nghiêm túc triển khai thực hiện các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước về khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu và đạt được nhiều kết quả tích cực. Nhiều sáng kiến, giải pháp chính sách đã được ban hành để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển với khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, ngăn chặn ô nhiễm và suy thoái môi trường, yêu cầu ứng phó với biến đổi khí hậu. Đến nay, mô hình tăng trưởng của Việt Nam đã có những tín hiệu chuyển biến tích cực “từ chiều rộng” sang “chiều sâu”, chú trọng hơn đến chất lượng tăng trưởng, tín hiệu chuyển dịch theo chiều hướng giảm dần sự phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, chú trọng hơn tới bảo vệ môi trường.

Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt được, công tác quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường còn chứa đựng những nguy cơ và thách thức, tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác, sử dụng hiệu quả; khối lượng chất thải phát sinh ngày càng tăng; tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường, đa dạng sinh học chưa được hạn chế trong bối cảnh xu hướng gia tăng dân số và đô thị hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đặt ra yêu cầu về nguồn tài nguyên, vật liệu và năng lượng cho phát triển kinh tế xã hội và áp lực từ chất thải phát sinh ngày càng tăng.

Hiện trạng và xu hướng khai thác, sử dụng tài nguyên

Từ cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế cho thấy kinh tế tuần hoàn xem xét đến các nguồn tài nguyên, nguyên liệu đầu vào chính của hoạt động sản xuất, kinh doanh của mỗi quốc gia, địa phương là khoáng sản, nước và nguồn tài nguyên sinh khối. Trong những năm qua việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên này như sau:

Nguồn lực tài nguyên khoáng sản đã được phát huy trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội; từng bước kiểm soát tình trạng khai thác khoáng sản trái phép. Đến nay, đã xác định nhiều vùng với nhiều loại khoáng sản tiềm năng như: than đồng bằng sông Hồng, urani Quảng Nam, đồng Kon Tum, vàng, thiếc, wolfram và khoáng chất công nghiệp vùng Tây Bắc. Giai đoạn từ 2011 đến nay, Việt Nam cơ bản đã đáp ứng nhu cầu nguyên liệu khoáng sản trong nước và một phần xuất khẩu, đặc biệt là một số lĩnh vực quan trọng như: dầu khí, than, quặng kim loại, quặng phi kim, hóa chất,... Tỷ lệ đóng góp của ngành khai khoáng vào tổng sản phẩm quốc nội có xu hướng giảm, năm 2011 ngành khai khoáng đóng góp 6,4% và giảm xuống còn 2,8% vào năm 2022, cho thấy Việt Nam phát triển kinh tế đang bớt phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên. Theo phương pháp phân tích dòng vật liệu, để tạo ra một nghìn đồng GDP thì cần tiêu tốn hết khoảng 19,19g than đá hoặc 0,25g sắt, thép hoặc 1,6g dầu thô - đây là tín hiệu tích cực phản ánh mức độ phụ thuộc của nền kinh tế và nguyên liệu thô đã giảm dần.

Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư, đổi mới công nghệ, thiết bị tiên tiến, hiện đại trong khai thác, chế biến khoáng sản, nhất là đối với lĩnh vực khai thác, chế biến than, xi măng... tạo sự chuyển biến phát triển từ “bề rộng” chuyển hướng sang “chiều sâu” theo hướng bền vững, giảm tiêu hao điện, năng lượng, giảm tổn thất tài nguyên khoáng sản, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chính sách đấu giá quyền khai thác khoáng sản, thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được triển khai góp phần chuyển hóa chuyển hóa nguồn tài nguyên khan hiếm, không tái tạo thành nguồn lực và đóng góp cho mục tiêu tăng trưởng, phát triển chung. Tuy nhiên, trong hoạt động khai thác chưa tận dụng và sử dụng hiệu quả các khoáng sản đi kèm, đất đá thải bỏ từ hoạt động khai thác chưa được xem là tài nguyên cho các hoạt động kinh tế khác.

Trên thế giới, tình trạng gia tăng giá cả, cạn kiệt nguồn tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là những loại khoáng sản chiến lược phục vụ cho phát triển năng lượng, công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghệ cao… đòi hỏi các quốc gia như Việt Nam cần có giải pháp chiến lược để tận dụng hiệu quả nguồn tài nguyên trong nước, giảm thiểu áp lực về nguồn cung các nguyên liệu, vật liệu cho hoạt động kinh tế.

Tài nguyên nước được tăng cường quản lý, an ninh nguồn nước được chú trọng bảo đảm trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Hướng dẫn, đôn đốc các địa phương thực hiện quy định về hạn chế khai thác nước dưới đất; chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước đã góp phần làm thay đổi nhận thức và hành vi theo hướng sử dụng nước tiết kiệm và hiệu quả hơn. Tính đến hết năm 2021, lượng nước khai thác sử dụng của các công trình đã được cấp giấy phép khoảng 40,69 tỷ m3/năm chiếm xấp xỉ 8% tổng lượng nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam, trong đó lượng nước mặt khoảng 39,05 tỷ m3/năm và lượng nước dưới đất khoảng 1,64 tỷ m3/năm. Có thể thấy với 1 m3 nước được khai thác sẽ tạo ra được 126.173,05 đồng GDP. Theo mục đích sử dụng, tổng lượng nước tưới khoảng 20,43 tỷ m3/năm, sinh hoạt và công nghiệp khoảng 20,26 tỷ m3/năm. Tiềm năng thủy điện của Việt Nam là khá lớn, tập trung chủ yếu trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình, Đồng Nai, Vu Gia - Thu Bồn,…

Trên phạm vi cả nước hiện có 493 dự án thuỷ điện (đến đầu năm 2021) đã được đưa vào vận hành, khai thác với tổng công suất lắp máy là 20.603MW, chiếm khoảng 30% tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện quốc gia1. Tổng dung tích các hồ chứa trên 54 tỷ m3, chiếm 86% tổng dung tích hồ chứa cả nước2. Tuy vậy, hiệu quả sử dụng tài nguyên nước còn thấp so với thế giới và khu vực, theo báo cáo của Ngân hàng thế giới, với mỗi một đơn vị m3 nước, Việt Nam chỉ tạo ra 2,37 đôla GDP, bằng khoảng 1/10 so với mức trung bình toàn cầu là 19,42 đôla.

Nguồn tài nguyên sinh khối lớn nhất của Việt Nam là rừng. Hiện nay tổng diện tích đất có rừng bao gồm cả rừng trồng chưa khép tán là 14.745.201 ha; trong đó, rừng tự nhiên là 10.171.757 ha; rừng trồng là 4.573.444 ha. Diện tích đất có rừng đủ tiêu chuẩn để tính tỉ lệ che phủ toàn quốc là 13.923.108 ha, tỉ lệ che phủ là 42,02%. Các chính sách hỗ trợ phát triển lâm nghiệp đã tương đối đầy đủ và rõ ràng, cho phép người dân, doanh nghiệp khai thác kinh tế nhằm mục tiêu bảo vệ rừng hiệu quả và phát triển rừng bền vững đối với một số loại rừng.

Ở Việt Nam, một số địa phương đã ban hành quy định tạm thời cho thuê môi trường rừng để kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí. Bên cạnh việc khai thác môi trường rừng, khai thác gỗ - sản phẩm từ rừng cũng đem lại giá trị kinh tế cao. Ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu của Việt Nam đã và đang phát triển nhanh và ổn định, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm đồ gỗ trong nước mà còn có giá trị xuất khẩu bền vững. Hàng năm nước ta sử dụng khoảng 35 triệu m3 gỗ rừng trồng; nhập khẩu 5-6 triệu m3 gỗ quy tròn. Diện tích rừng trồng sản xuất đáp ứng gần 80% nhu cầu sử dụng gỗ nguyên liệu trong chế biến.

Theo Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn năm 2050 thì định hướng phát triển nền công nghiệp chế biến gỗ theo hướng phát triển cơ giới hóa và công nghiệp chế biến lâm sản theo hướng ứng dụng công nghệ hiện đại, thông minh, hiệu quả, an toàn, ít phát thải và bền vững. Áp dụng kinh tuần hoàn trong lĩnh vực chế biến gỗ sẽ góp phần hiện thực hóa mục tiêu trong Chiến lược phát triển Lâm nghiệp khi gắn kết giữa việc phát triển công nghiệp chế biến gỗ với bảo vệ tài nguyên rừng.